Cảm nghĩ của anh (chị) về giá trị hiện thực sâu sắc của đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh (trích Thượng kinh kí sự của Lê Hữu Trác)
Nội dung bài gồm:
- Bài mẫu 1: Cảm nghĩ của anh (chị) về giá trị hiện thực sâu sắc của đoạn trích Vào phủ...
- Bài mẫu 2: Cảm nghĩ của anh (chị) về giá trị hiện thực sâu sắc của đoạn trích Vào phủ...
- Bài mẫu 3: Cảm nghĩ của anh (chị) về giá trị hiện thực sâu sắc của đoạn trích Vào phủ...
- Bài mẫu 4: Cảm nghĩ của anh (chị) về giá trị hiện thực sâu sắc của đoạn trích Vào phủ...
- Bài mẫu 5: Cảm nghĩ của anh (chị) về giá trị hiện thực sâu sắc của đoạn trích Vào phủ...
Bài mẫu 1: Cảm nghĩ của anh (chị) về giá trị hiện thực sâu sắc của đoạn trích Vào phủ...
Đặt trong thế so sánh với những danh y cũng được vời vào cung chữa bệnh cho thế tử, ông không hề nhỏ bé, trái lại càng làm cho nhân cách và tài năng của ông được nâng cao hơn so với họ. Đồng thời, cũng nêu bật lên một hiện thực nhức nhối tồn tại trong phủ Chúa lúc bấy giờ, chính là những kẻ bất tài, hám lợi, ăn bám trở thành một hệ thống đông đảo.
Bài làm
Lê Hữu Trác được người đời nhắc tới với danh xưng Hải Thượng Lãn Ông như một cách để khẳng định thái độ coi thường danh lợi, vinh hoa phú quý của ông. Đồng thời đó cũng là cái tên thể hiện sự trân trọng của người đời với người thầy thuốc giỏi, có lương y, có đạo đức Lê Hữu Trác. Thượng kinh kí sự là tập kí sự bằng chữ Há, hoàn thành năm 1783, nằm ở cuối bộ Hải Thượng y tông tâm lĩnh như một quyển phụ lục. Đây cũng là cuốn sách miêu tả chân thực quang cảnh ở kinh đô, cuộc sống sa hoa trong phủ chúa Trịnh và quyền uy, thế lực của nhà chúa - những điều Lê Hữu Trác mắt thấy tai nghe trong chuyến đi từ Hương Sơn ra đến Thăng Long để chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán và chúa Trịnh Sâm. Đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh nói về việc Lê Hữu Trác lên tới kinh đô, được dẫn vào phủ chúa dể bắt mạch, kê đơn cho Trịnh Cán. Đây được xem như bức tranh sống động về hiện thực cuộc sống sa hoa, quyền uy của nhà Chúa được Lê Hữu Trác khắc họa khéo léo, tỉ mỉ và trung thực qua những trang viết. Và đó cũng chính là những nhân tố làm nên giá trị hiện thực sâu sắc của tác phẩm này.
Giá trị hiện thực của tác phẩm trước hết hiện lên ở khung cảnh cuộc sống sa hoa, quyền quý của chúa Trịnh và tầng lớp quan lại, quý tộc. Khi vào phủ Chúa phải đi qua nhiều lần cửa với những hành lang quanh co nối tiếp nhau. Ở mỗi cửa đều có vệ sĩ canh gác. Khuôn viên phủ Chúa rộng. Chỉ đi một lúc mà đã có tới mấy trạm dừng chân. Mỗi trạm, mỗi cửa đều được đặt tên riêng và cũng có chức năng của riêng nó. Kiến trúc trong phủ thật kiểu cách, cảnh trí thiên nhiên kì lạ, thú vị. Trong vườn, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thắm, gió đưa thoang thoảng mùi hương. Bên trong là Đại đường, gác tía với kiệu son, võng điều. Đặc biệt hơn nữa, mọi đồ dùng của Chúa đều được sơn son thiếp vàng. Đồ dùng tiếp khách ăn uống của là mâm vàng, chén bạc, món ăn cũng là những của ngon vật lạ hiếm thấy ở ngoài. Khi được đưa tới nội cung của thế tử, Lê Hữu Trác được quan Chánh đường dắt qua sáu lần trướng mới đến được nơi. Đó là một căn phòng sang trọng với sập thiếp vàng ở giữa phòng bên cạnh là ghế rồng sơn son thiếp vàng bày nệm ấm, xung quanh lấp lánh, hương hoa ngào ngạt. Chỉ bằng một vài nét vẽ và chi tiết ấy, Lê Hữu Trác đã phác họa đầy ấn tượng cuộc sống giàu sang, phú quý, sa hoa ở phủ Chúa. Sự bày trí, lối kiến trúc sa hoa ấy hoàn toàn đối lập với sự nghéo đói, thiếu thốn, khổ cực của nhân dân ở ngoài kia. Khung cảnh ấy được khắc họa bằng giọng kể khách quan đan xen với thái độ ngạc nhiên và sự phê phán kín đáo chúa Trịnh. Bởi bản thân ông cũng được sinh ra trong một gia đình quan lại, giàu có, cũng được sống trong nhung lụa, gấm vóc với cuộc sống giàu sang nhưng chứng kiến khung cảnh ở phủ Chúa ông vẫn thấy hết sức ngạc nhiên. Nhưng nhiều hơn là sự không đồng tình và chán ghét. Nỗi niềm ấy đã được thể hiện rất rõ qua bài thơ ngẫu nhiên thốt ra để ghi nhớ sự kiện được vào phủ Chúa của Lê Hữu Trác:
“...Quê mùa, cung cấm chưa quen
Khác gì ngư phủ đào nguyên thuở nào...”
Giá trị hiện thực còn được thể hiện qua bộ máy quan lại với guồng máy phục vụ đông đúc, tấp nập cùng những nghi lễ kì lạ, sự kiểm soát nghiêm ngặt từ cổng vào cho tới những phép tắc, quy củ trong các đi đứng, chào hỏi và cả với việc khám bệnh cho thế tử nữa. Lê Hữu Trác dù đã lên kinh thành ít lâu song vẫn phải ở gần phủ để chờ lệnh Chúa. Khi được triệu hồi, khăn mũ phải chính tề, không được phép đi cửa trước mà phải đi theo cửa sau vào. Người làm trong phủ Chúa nhiều không kể siết, người có việc quan qua lại như mắc cửi. Vệ sĩ đứng canh cửa cung, ai muốn ra vào phải có thẻ. Qua mỗi một lần cửa, lại có thị vệ kiểm tra, chặn không cho ông vào, chỉ khi được quan Chánh đường lên tiếng, những tay thị vệ ấy mới cho ông đi qua. Ông được đưa tới một căn phòng, được gọi là “phòng trà” - nơi thế tử sẽ dùng thuốc, đã có bảy tám người đều là ngự y giỏi được gọi vào chăm sóc cho thế tử. Họ phải ngồi chờ tới lượt mình chữa chứ không phải tùy tiện, muốn thế nào là được thế ấy. Có lẽ người đọc ấn tượng nhất về những quy củ, nguyên tắc cứng ngắc, ngặt nghèo trong phủ Chúa chính là những lễ nghi mà người thầy thuốc phải thi hành với thế tử. Lê Hữu Trác được dắt tới nội cung của thế tử Trịnh Cán. Cả trước và sau khi khám bệnh, ông đều phải vái lạy, khi có chỉ thị của thế tử, ông mới được phép chạm vào người và bắt mạch cho. Dù đã dâng lên phương thuốc và cách thức để chữa dút điểm bệnh cho thế tử, song viên quan Chánh đường cũng những vị danh y ngồi đó đều cảm thấy kì quái và không hài lòng với bài thuốc mà ông đưa tới. Phải chăng, cách chữa của Lê Hữu Trác quá dân dã, đơn giản nên họ không tin tưởng vào tay nghề y thuật của ông? Thế nhưng, dù thế nào thì người thầy thuốc ấy cũng đã vượt qua cái suy nghĩ cá nhân hẹp hòi, vẫn không để danh lợi cuốn lấy chân và vẫn không làm trái với lương tâm của một người thầy thuốc.
Cuối cùng, giá trị hiện thực trong tác phẩm được thể hiện qua chính cuộc sống ăn chơi, trụy lạc, sa đọa của cha con chúa Trịnh Sâm, Trịnh Cán. Chúa Trịnh Sâm đã nổi tiếng về lối sống sa đọa của mình khắp chốn gần xa. Mức độ hoang dâm, mu muội, nhu nhược của Chúa Trịnh Sâm khiến cho phi tần Đặng Thị Huệ đè đầu, dắt mũi sai khiến Chúa. Gia đình thị cũng nhờ thế mà hống hách, kiêu ngạo được thể ức hiếp dân lành. Chúa Trịnh Sâm cũng là một trong những vị Chúa ham mê tửu sắc nhất trong các vị Chúa với hơn 400 phi tần chỉ chăm lo việc hầu hạ. Còn với thế tử Trịnh Cán - con trai của thị Huệ và chúa Trịnh Sâm, vì được bao bọc quá độ nên mới sinh bệnh. Điều ấy ngay từ khi quan sát và bắt mạch, Lê Hữu Trác đã nhận ra “...Nhưng theo ý tôi, đó là vì thế tử ở trng chốn màn che trướng phủ, ăn quá no, mặc quá ấm nên tạng phủ yếu đi...”. Hóa ra, thế tử cũng không có bệnh gì, chỉ là sung sướng quá, lười vận động mà cơ thể ngày càng yếu đi, sức đề kháng cũng theo đó mà giảm xuống. Các ngự y trong cung vì muốn làm vui lòng Chúa lại luôn dùng thứ thuốc công phạt khắc bác, lại càng khiến cho cơ thể thế tử tiều tụy, yếu ớt hơn. Suy cho cùng, bệnh của thế tử là bệnh của kẻ nhà giàu.
Giá trị hiện thực trong tác phẩm được phản ánh trực tiếp qua cái nhìn nhận, đánh giá và bình luận của nhân vật tôi - chính là Lê Hữu Trác khi ông tới khám cho thế tử và chúa Trịnh Sâm. Là một người thầy thuốc, Lê Hữu Trác tự nhận mình quê mùa, luôn tỏ ra là một người hòa nhã, kính nhường ham học hỏi. Đặt trong thế so sánh với những danh y cũng được vời vào cung chữa bệnh cho thế tử, ông không hề nhỏ bé, trái lại càng làm cho nhân cách và tài năng của ông được nâng cao hơn so với họ. Đồng thời, cũng nêu bật lên một hiện thực nhức nhối tồn tại trong phủ Chúa lúc bấy giờ, chính là những kẻ bất tài, hám lợi, ăn bám trở thành một hệ thống đông đảo.
Đối với một tác phẩm thời trung đại, các tác giả thường tránh không để cho cái tôi của mình xuất hiện. Nhưng trong tác phẩm này lại khác, tác giả không ngần ngại để cái “tôi” của mình xuất hiện. Đó là tiếng nói của một con người với lương tâm và đức độ của người thầy thuốc. Tất cả những điều ấy làm cho giá trị hiện thực của tác phẩm càng được hiện lên sắc nét và mỉa mai.
Bài mẫu 2: Cảm nghĩ của anh (chị) về giá trị hiện thực sâu sắc của đoạn trích Vào phủ...
Giá trị hiện thực của đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh là đã vẽ ra một bức tranh sinh động về cuộc sống quá xa hoa, quyền quý đến mức một người từng sống ở kinh thành như Lên Hữu Trác đã không ít lần phải sửng sốt, ngạc nhiên. Nó còn dựng lên trước mắt người đọc chân tường của một tầng lớp thống trị ốm yếu, thiếu sinh khí, sống sau những lớp mà che tăm tối, xa cách hẳn với cuộc sống lành mạnh, tự nhiên.
Bài làm
“Con ơi nhớ lấy câu này
Cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan”.
Bọn vua chúa phong kiến đa số là những tên cướp ngày. Chúng cướp của nhân dân một cách công khai bằng đủ thủ đoạn tàn ác để vinh thân phì gia, để hưởng thụ cuộc sống. Lên Hữu Trác, một danh y lỗi lạc, một văn nhân tài ba của nước ta ở thế kỉ XVIII đã một phần nào nói lên được thực trạng này qua tác phẩm Thượng kinh kí sự. Trong kí sự này, đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh có một giá trị hiện thực sâu sắc khi phản ánh được cuộc sống xa hoa, giàu sang, quyền uy tột bậc của nhà chúa.
Thế nào là giá trị hiện thực? đây là cách viết văn mô tả cuộc sống thực của một nhân vật hoặc một tầng lớp xã hội. Cách viết này có giá trị giúp người đọc thấy hiện ra trước mắt mình hình ảnh về cuộc sống trong một giai đoạn lịch sử, từ đó gợi lên những cảm nghĩ để có những nhận xét, đánh giá nhất định. Giá trị hiện thực của đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh là đã vẽ ra một bức tranh sinh động về cuộc sống quá xa hoa, quyền quý đến mức một người từng sống ở kinh thành như Lên Hữu Trác đã không ít lần phải sửng sốt, ngạc nhiên. Nó còn dựng lên trước mắt người đọc chân tường của một tầng lớp thống trị ốm yếu, thiếu sinh khí, sống sau những lớp mà che tăm tối, xa cách hẳn với cuộc sống lành mạnh, tự nhiên. Nhất là nó cho chúng ta nhận ra diện mạo của một chế độ xã hội phi lí, đáng bị đào thải. Để phản ánh chân thực hiện thực, tác giả đã dùng để kí sự. Kí là tên gọi chung cho một nhóm thể loại có tính giao thoa giữa báo chí với văn học. Kí viết về cuộc đời thực tại, viết về người thật, việc thật. Người viết kí miêu tả thực tại theo tinh thần của sử học. Tác giả kí coi trọng việc thuật lại có ngọn nghành và không bao giờ quên miêu tả khung cảnh.
Trước hết chúng ta tìm hiểu hoàn cảnh tác giả vào Trịnh phủ. Tác giả ghi chép lại những điều ông mắt thấy tai nghe trong một chuyến đi từ Hương Sơn (Hà Tĩnh), nơi ông sống ẩn dật, đến kinh đô Thăng Long, vào phủ Chúa theo “thánh chỉ” để chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán. Tác giả cho ta thấy quang cảnh ở kinh đô, quyền uy thế lực của nhà chúa và cuộc sống xa hoa trong phủ chúa Trịnh, những điều Lê Hữu Trác mắt thấy tai nghe trong nhiều chuyến đi từ Hương Sơn ra Thăng Long đã thôi thúc ông cầm bút. Năm 1783 ông viết xong tập Thượng kinh kí sự bằng chữ Hán. Tập kí sự này là một tác phẩm văn học đích thực, đặc sắc, có giá trị hiện thực cao.
Đầu tiên giá trị hiện thực được thể hiện qua nét vẽ của một bức tranh sinh động về cuộc sống quá xa hoa, quyền quý của vua quan ở phủ chúa. Theo chân tác giả, người đọc như tận mắt trong thấy quanh cảnh ở phủ chúa cực kì xa hoa, tráng lệ - không ở đâu sánh bằng. Muốn vào phủ, ta phải qua nhiều lần cửa với những hành lang quanh co nối tiếp nhau, ở mỗi cửa đều có vệ sĩ canh giác. Khuôn viên phủ chúa rộng, có trạm dừng chân được kiến trúc thật kiểu cách, với cảnh trí thiên nhiên kì lạ. Trong vườn, chim kêu ríu rít, anh hoa đua thắm, gió đưa thoang thoảng mùi hương. Bên trong là những Đại đường, gác tía với kiệu son, võng điều. Đồ dùng của chúa được sơn son thiếp vàng, đồ dùng tiếp khách ăn uống đều là mâm vàng, chén bạc, của ngon vật lạ … Đến nội cung của thế tử phải trải qua sáu lần trướng gấm. Nơi ở của thế tử rất sang trọng, có sập thếp vàng, ghế rồng bày nệm ấm, xung quanh lấp lánh, mùi thơm ngào ngạt … Trước cảnh tưởng xa hoa này, Lê Hữu Trác đã phải cảm tác:
“Lầu từng gác vẽ tung mây,
Rèm châu, hiên ngọc, bóng mai ánh vào
Hoa cung thoảng ngạt ngào đưa tới
Vườn ngự nghe vẹt nói đòi phen”.
Và còn hơn thế nữa! tác giả vốn con quan, sinh trưởng ở chốn phồn hoa, chỗ nào trong cấm thành cũng từng biết. Duy chỉ có những việc trong phủ chúa là chưa biết đến … nay mới hay cái cảnh giàu sang của phủ chúa thực khác hẳn người thường, không thể tượng tượng nổi, đến nỗi làm cho ai cũng phải sửng sốt, ngạc nhiên:
“Cả trời Nam sang nhất là đây!”
Hoặc
“Quê mùa, cung cấm chưa quen,
Khác gì ngư phủ đào nguyên thuở nào!”
Tiếp theo, giá trị hiện thực còn được thể hiện qua việc tác giả dựng lên trước mắt người đọc chân tướng của một tầng lớp thống trị ốm yếu, thiếu sinh khí, sống sau những lớp màn che tăm tối, xa cách hẳn với cuộc sống lành mạnh, tự nhiên của người dân. Đó là hình ảnh của thế tử Trịnh Cán. Nơi ở của thế tử thật khác thường: phải trả qua năm sáu lần trướng gấm làm cho nơi ở tối om, ngột ngạt và thiếu sinh khí. Người ta vì đói ăn thiếu mặc mới bệnh hoạn, ốm yếu đã đành, đây lại vì “ăn quá no, mặc quá ấm”, dư thừa về vật chất, vậy mà “tinh khí khô hết, da mặt khô, rốn lồi to, gân thời xanh, tay chân gầy gò vì nguyên khí đã hao mòn, thương tổn quá mức”. Xem tờ khải của Lê Hữu Trác, người đọc càng thấy rõ hơn thực tế này: “chầu mạch, thấy sáu mạch tế sác và vô lực, hữu quan yếu, hữu xích lại càng yếu hơn. Ấy là tì âm hư, vị hỏa quá thịnh, không giữ được dương khí, nên âm hỏa đi càn. Vì vậy, bên ngoài thấy cổ trướng, đó là tượng trưng ngoài thì phù, bên trong thì trống”. Như thế tác giả đã giúp cho người đọc hiểu rõ căn nguyên cơ thể ốm yếu, héo hon, gầy mòn của thế tử chính là kết quả của lối sống xa hoa, giàu sang mà thiếu sinh khí trời lành mạnh, tự nhiên. Cách sống và nơi sinh hoạt của phủ chúa càng làm nổi bật giá trị hiện thực của tác phẩm.
Càng thấy được, hiểu được lối sống xa hoa quyền quý ở phủ chúa Trịnh, chúng ta càng dâng lên lòng căm giận bọn vua quan này vì đoạn trích đã giúp chúng ta nhận ra diện mạo của một chế độ xã hội phi lí, đang bị đào thải. Ngay nhà văn Phạm Đình Hổ trong Vũ trung tùy bút cũng đã có những phản ánh tương tự: “Trong phủ, tùy chỗ, điểm xuyết bày vẽ ra hình núi non bộ trong như bến bể đầu non. Mỗi khi đêm thanh cảnh vắng, tiếng chim kêu vượn hú tràn khắp bốn bể, hoặc nửa đêm ồn ào như trận mưa sa …”. Vậy cuộc sống xa hoa này do đâu mà có? Chắc chắn là do chúng vơ vét của cải nhân dân, gây ra biết bao nhiêu tội ác với nhân dân lao động, đẩy họ vào con đường tối tăm cùng cực… Nguyên do này cũng được nhà văn Phạm Đình Hổ xác nhận như sau: “Buổi ấy, bao nhiêu những loài trân cầm dị thú, cổ mộc quái thạch, chậu hoa cây cảnh ở chốn dân gian, chúa đều sức thu lấy, không thiếu một thứ gì”. Những cuộc đời vẫn có những quy luật của nó. Đó là “nhân nào quả nấy”, đólà “cùng tắc biến”. Chính vì thế mà qua hình dáng và bệnh tình của Đông cung Thế tử, người đọc có thể liên tưởng đến tình trạng suy thoái của truyền đình phong kiến Việt Nam vào thời đó. Chế độ phong kiến tồn tại hàng ngàn năm đã già cỗi, lạc hậu, khó bền cứu chữa và đến ngày diệt vong. Cuộc Bắc phạt của Bắc bình vương Nguyễn huệ đã chấm dứt một thời vàng son của chúa Trịnh.
Tóm lại, đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh mang giá trị hiện thực sâu sắc. Bằng tài quan sát tinh tế, tỉ mỉ bẳng ngòi bút ghi chép chi tiết, chân thực và tài tả cảnh sinh động, thuật việc khéo léo, tác giả đã vẻ lại một bức tranh sinh động, thuật việc khéo léo, tác giả đã vẽ lại một bức tranh sinh động về cuộc sống xa hoa quyền quý của chúa Trịnh. Chính vì thế mà tác phẩm Thượng kinh kí sự của Lê Hữu Trác xứng đáng là viên ngọc quý của nền văn học trung đại Việt Nam.
Bài mẫu 3: Cảm nghĩ của anh (chị) về giá trị hiện thực sâu sắc của đoạn trích Vào phủ...
Đối với ông thì không có gì quý bằng cuộc sống tự do nơi non xanh nước biếc chốn quê nhà, được đem hết tài năng, nhiệt huyết cống hiến cho y thuật và cứu nhân độ thế. Cuộc sống nơi cung vua, phủ chúa dẫu giàu sang phú quý tột bậc nhưng rốt cục cũng ch? là vào luồn ra cúi, cá chậu chim lồng mà thôi.
Bài làm
Lê Hữu Trác (1724 – 1791) tên hiệu là Hải Thượng Lãn ông, quê ở làng Liêu Xá, huyện Đường Hào, phủ Thượng Hồng, trấn Hải Dương, nay thuộc huyện Yên Mĩ, tĩnh Hưng Yên ông là một danh y lừng lẫy trong lịch sử y học Việt Nam. Ý nguyện lớn nhất của ông là đem tài năng và tâm huyết của mình để cứu người, giúp đời. Danh lợi, phú quý không thể làm cho ông xa rời lí tưởng cao đẹp đó. Sự nghiệp của ông được tập hợp trong bộ Hải Thượng y tông tâm lĩnh gồm 66 quyển, biên soạn trong gần 40 năm, là một công trình nghiên cứu y học xuất sắc nhất thời trung đại ở nước ta.
Thượng kinh kí sự nguyên văn bằng chữ Hán, được Lê Hữu Trác viết năm 1782, nội dung ghi lại những điều mà tác giả tai nghe mắt thấy trong những lần được vời ra kinh đô Thăng Long chữa bệnh cho cha con chúa Trịnh Sâm. Qua những trang viết sinh động và sắc sảo, tác giả đã phản ánh chân thực cuộc sống xa hoa của tầng lớp vụa chúa phòng kiến, đồng thời kín đáo bày tỏ thái độ thờ ơ, coi thường danh lợi của mình.
Mở đầu bài kí là Khung cảnh giàu sang, đẹp đẽ hiếm có cùa phủ chúa Trịnh được tác giả miêu tả trực tiếp qua quan sát và miêu tả gián tiếp qua ấn tượng mà nó gây ra trong lòng tác giả: Tôi ngẩng đầu lên: đâu đâu cũng là cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thấm, gió đưa thoang thoảng mùi hương… Tôi nghĩ bụng: Mình vốn con quan, sinh trưởng ở chốn phồn hoa, chỗ nào trong cấm thành mình cũng đã từng biết Chỉ có những việc trong phủ chúa là mình chỉ mới nghe nói thôi. Bước chân đến đây mới hay cảnh giàu sang của vua chúa thực khác hẳn người thường!
Rèm châu, hiên ngọc, bóng mai ánh vào."
Xung quanh lấp lánh, hương hoa ngào ngạt Xem chừng Thánh thượng thường thường vẫn ngồi trên ghế rồng này, nay người rút lui vào màn để tồi xem mạch Đông cung cho thật kĩ:
Điều thú vị hơn cả là nếu suy ngẫm kĩ, chúng ta sẽ thấy nội dung tờ khải của danh y Lê Hữu Trác nói về cách chữa bệnh cho thế tử nhưng lại chứa đựng một nhận xét cực kì chính xác về thực trạng của triều đình phong kiến đương thời và đưa ra phương thức chữa trị những căn bệnh trầm kha của nó: Chầu mạch, thấy sáu mạch tế, sác và vô lực, hữu quan yếu, hữu xích lại càng yếu hơn. Ấy là tì âm hư, vị hỏa quá thịnh, không giữ được khí dương, nên âm hoả đi càn. Vì vậy( bên ngoài thấy cổ trướng, đó là tượng trưng ngoài thì phù, bên trong thì trống. Nên bổ tì thổ thì yên…
Danh y Lê Hữu Trác thừa sáng suốt để kê một phương thuốc hoà hoãn cho thế tử vì sợ nếu mình làm kết quả ngay thì sẽ bị danh lợi nó ràng buộc, không làm sao về núi được nữa. Là một bậc chân Nho, ông tỏ ra nắm rất vững lẽ xuất xử của người quân tử. Quyết định lánh xa vòng danh lợi của ông trong hoàn cảnh ấy là vô cùng đúng đắn.
Bài mẫu 4: Cảm nghĩ của anh (chị) về giá trị hiện thực sâu sắc của đoạn trích Vào phủ...
“Vào phủ chúa Trịnh” trở thành một quá trình tiếp cận sự thật đời sống xa hoa vương giả hơn là thăm bệnh, chữa bệnh. Thăm bệnh, chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán tưởng chỉ như một cái cớ, một dịp may giúpngười viết kí hoàn thiện bức tranh về cuộc sống thâm nghiêm, giàu sang đầy uy quyền.
Bài làm
Bài mẫu 5: Cảm nghĩ của anh (chị) về giá trị hiện thực sâu sắc của đoạn trích Vào phủ...
Lê Hữu Trác tự thấy mình như kẻ “quê mùa” lần đầu đến nơi “cung cấm”, như chàng “ngư phủ” gặp chốn “đào nguyên”. Sự liên tưởng ấy thật đắt giá biết chừng nào. Điều đó phản ánh một sự thực lịch sử: trong cuộc tranh giành quyền lực lịch sử, nhà Trịnh đang giành thế thượng phong, uy quyền phủ chúa lấn át cả cung vua, trong khi phủ chúa lộng lẫy, xa hoa, cung vua chẳng khác nào một cái nhà lớn rỗng trong, tứ bề gió lùa hoang phế.
Bài làm
Xem thêm lời giải Bài văn mẫu 11
- 👉 Đọc truyện Tấm Cám, anh (chị) suy nghĩ gì về cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác,...
- 👉 Bày tỏ ý kiến của mình về vấn đề mà tác giả Thân Nhân Trung đã nêu...
- 👉 Viết bài nghị luận bày tỏ quan niệm của mình về phương châm Học đi đôi với hành.
- 👉 Cảm nghĩ của anh (chị) về giá trị hiện thực sâu sắc của đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh (trích Thượng kinh kí sự của Lê Hữu Trác)
- 👉 Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam thời xưa qua các bài Bánh trôi nước, Tự tình (bài II)...
- 👉 Nhân cách nhà nho chân chính trong Bài ca ngắn đi trên bãi cát của Cao Bá Quát (hoặc Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ)
- 👉 So sánh tài sắc của Thúy Vân và Thúy Kiều được thể hiện trong đoạn trích sau:
- 👉 Nguyễn khuyến và Tú Xương có nỗi niềm tâm sự giống nhau nhưng trong giọng thơ có điểm khác nhau...
Lớp 11 | Các môn học Lớp 11 | Giải bài tập, đề kiểm tra, đề thi Lớp 11 chọn lọc
Danh sách các môn học Lớp 11 được biên soạn theo sách giáo khoa mới của bộ giáo dục đào tạo. Kèm theo lời giải sách bài tập, sách giáo khoa, đề kiểm tra 15 phút, 45 phút (1 tiết), đề thi học kì 1 và học kì 2 năm học 2024 ngắn gọn, chi tiết dễ hiểu.
Toán Học
- Đề thi, đề kiểm tra Toán lớp 11
- SBT Toán lớp 11 Nâng cao
- SBT Toán 11 Nâng cao
- SGK Toán 11 Nâng cao
- SBT Toán lớp 11
- SGK Toán lớp 11
Vật Lý
- SBT Vật lí 11 Nâng cao
- SGK Vật lí lớp 11 Nâng cao
- SBT Vật lí lớp 11
- SGK Vật lí lớp 11
- Giải môn Vật lí lớp 11
Hóa Học
- Đề thi, đề kiểm tra Hóa lớp 11
- SBT Hóa học 11 Nâng cao
- SGK Hóa học lớp 11 Nâng cao
- SBT Hóa lớp 11
- SGK Hóa lớp 11
Ngữ Văn
Lịch Sử
Địa Lý
Sinh Học
- Đề thi, đề kiểm tra Sinh lớp 11
- SGK Sinh lớp 11 Nâng cao
- SBT Sinh lớp 11
- SGK Sinh lớp 11
- Giải môn Sinh học lớp 11
GDCD
Tin Học
Tiếng Anh
- Đề thi, đề kiểm tra Tiếng Anh 11 mới
- SBT Tiếng Anh lớp 11
- SGK Tiếng Anh lớp 11
- SBT Tiếng Anh lớp 11 mới
- SGK Tiếng Anh lớp 11 Mới