Bình giảng đoạn thơ Kiều ở lầu Ngưng Bích (bài 2).
Bài làm:
Nhà thơ Nguyễn Đình Thi từng viết: "Tiếng nói Việt Nam trong Truyện Kiều như làm bằng ánh sáng vậy, nó trong suốt như dòng suối, dòng suối long lanh đáy nước in trời".., Dòng suối ấy hòa tan và làm trong trẻo cả những điển tích, những từ Hán Việt xa lạ để biến nó thành thơ, thành nhạc trong tiếng nói Việt Nam. Đặc biệt ở những đoạn diễn tả trực tiếp tâm trạng, những tình cảm sâu sắc, chân thực của con người, lời thơ càng giản dị truyền cảm:
“Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân,
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung.
Bốn bề bát ngát xa trông,
Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia.
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng..."
Thiết tưởng không cần chú giải, chỉ đọc những câu thơ ấy, đã thấy tất cả cái heo hút mênh mông của cảnh; cái cô đơn và những ngổn ngang, bề bộn của tâm tư con người. Kiều ở lầu Ngưng Bích do sự sắp xếp của Tú bà, sau sự việc xảy ra ở lầu xanh, khi Kiều tự vẫn vì biết mình bị lừa, không phải “được” mang về làm vợ lẽ Mã Giám Sinh mà chỉ là một món hàng mua bán và bị làm nhục. Ngay lúc Tú bà xưng với Kiều là “mẹ", bắt nàng gọi Mã là "cậu mày bên kia", Kiều đã ngơ ngác "ngây thơ chẳng biết là danh phận gì?" Đến bây giờ, dù Tú bà đã dỗ dành, lừa dối nàng ra ở lầu Ngưng Bích là “khóa xuân” để đợi ngày lấy chồng, để “tìm nơi xứng đáng làm con cái nhà”, nàng vẫn thấy ngơ ngác, dở dang về “danh phận", về thân phận của mình. Nàng ở lầu Ngưng Bích không phải là với tư cách một người "con" của Tú bà như mụ hứa - hàn thế - mà cũng không phải là một tù nhân: nàng như một người bị giam lỏng, ở trong một tình cảnh trớ trêu, trước một tương lai mù mịt. Và nàng chỉ có một mình, hoàn toàn cô đơn giữa quê người đất khách.
Hình như đây chính là một dụng ý, một âm mưu được tính toán trước của Tú bà. Kiều càng bị giam lỏng, cô đơn, cách biệt với mọi người, nàng sẽ càng khao khát trở về với cuộc sống bình thường và càng dễ hị rơi vào bẫy của Sở Khanh, chính là của mụ. Vì vậy tâm trạng của Kiều thật là "ngổn ngang trăm mối” và ta có thể đọc thấy ngay từ những câu thơ khi mờ khi tỏ tả cảnh lầu Ngưng Bích đẹp đẽ và heo hút này.
Thiên nhiên có tác động rất lớn đến tâm hồn con người, là hình ảnh phản chiếu tâm hồn con người – Nguyễn Du từ thời đó đã nói với chúng ta như thế. Ở lầu Ngưng Bích, chỉ có mình Kiều với thiên nhiên. “Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung”... không phải là "dãy núi và mảnh trăng như ở cùng trong một vòm trời, như trong cùng một bức tranh" (Văn 9 - phần chú giải) mà là “ở chung" với nàng Kiều. Nói vậy có vẻ như thô thiển, nhưng nếu phải tìm hiểu tận cùng ngữ nghĩa, thì đúng là nàng Kiều chỉ có thiên nhiên làm bầu bạn. Tất cả mọi dáng vẻ của thiên nhiên: xa mờ như sắc núi có thể nhìn thấy lúc ban ngày đẹp trời, gần gũi như mảnh trăng lúc ban đêm... sớm lại chiều, ngày này qua ngày khác, nhìn thấy được nhưng không thể cùng nàng chuyện trò, chia sẻ... Lầu Ngưng Bích hẳn ở một nơi hoang vắng, ít người qua lại, khắp "bốn bề" và cho đến tận "xa trông", về phía nào cũng chỉ thấy bụi cây, cồn cát. Mỗi câu thơ là một cặp đối xứng: vẻ non xa - tấm trăng gần mờ ảo; cát vàng cồn nọ - bụi hồng dặm kia tầng tầng lớp lớp; mây sớm - đèn khuya vắng lặng cô đơn... Cái vẻ đối xứng tạo nên cảm giác trùng lập của hình ảnh ấy, chính là những nỗi ngổn ngang, bề bộn trong lòng nàng Kiều, không dám hi vọng, tin tưởng mà cũng không hoàn toàn là tuyệt vọng đớn đau. Vì nàng còn quá trẻ, vì dù gặp tai biến, cuộc đời cũng mới chỉ bắt đầu. Nhưng nếu nàng vừa hi vọng, dù chỉ mơ hồ, thấp thoáng, thì lại không tránh khỏi "bẽ bàng" tội nghiệp ngay trong vô vọng. “Nửa tình, nửa cảnh", buồn rồi nhớ, đợi chờ, hi vọng rồi thất vọng “như chia tấm lòng ". nối nhau đến rồi đi trong lòng nàng như thế.
Trong tình cảnh đó, người mà nàng nhớ đến trước hết là chàng Kim Trọng, người đã cùng nàng gắn bó “Tưởng người dưới nguyệt chén đồng. Tin sương luống những rày trông mai chờ". Sách Văn 9 đã chú giải rất đúng về câu thơ này. Không phải là nàng Kiều mong chờ “tin sương" của Kim Trọng, mà chính là nàng đang hình dung ra Kim Trọng trong nỗi "rày trông mai chờ'" nàng. Từ lúc phải cân nhắc “bên tình bên hiếu" và quyết định "đệ lời thề hải minh sơn" sang một bên mà bán mình chuộc cha, nàng đã xác định với mình để không bao giờ còn đợi chờ, hi vọng. Huống chi bây giờ thân nàng đã rơi vào tay bọn Tú bà và họ Mã. Nhưng còn chàng Kim chàng đâu đã biết việc nàng gặp tai biến. Ở Liêu Dương xa xôi, chàng vẫn ngày đêm trông chờ để sớm gặp lại nàng (mà dù có về nơi cũ, biết rồi, chàng chắc vẫn mong chờ nàng như thế!). Trong tình yêu cũng như trong cuộc đời, bất cứ lúc nào nàng Kiều cũng nghĩ đến người khác, nghĩ cho người khác trước khi nghĩ đến mình. Riêng đối với chàng Kim, nàng còn mang nặng một nỗi lòng yêu thương, ân hận như mình có lỗi. Để chàng Kim phải nhớ mong, đau khổ, nàng cho là lỗi của mình... Trong suốt 15 năm, mỗi lần nghĩ đến chàng Kim, nỗi đau ấy vẫn làm nàng nhức nhối, và theo thời gian, càng thấm thía những thăng trầm tủi nhục của chính mình, nàng lại càng thương nỗi lòng trông đợi của chàng. Và như vậy, nàng biết rằng nàng sẽ không bao giờ quên được mối tình đối với chàng Kim, dù cuộc đời có lưu lạc nơi "chân trời góc bể”, dù nàng có muốn ''gột rửa", muốn quên lãng nó đi...
Cũng trong nỗi lòng thương nhớ luôn hướng về người khác ấy, nàng hình dung cha mẹ già "tựa cửa" hôm mai ngóng tin nàng. Nàng hình dung cuộc sống của cha mẹ mà nàng không còn được ở gần để chăm sóc, "‘quạt nồng ấp lạnh", để làm cho mẹ cha vui lúc tuổi già. Duy nhất trong đoạn thơ, chỗ này có dùng điển tích ("Sân Lai...").
Nghĩ về cha mẹ, nghĩ về Kim Trọng, cuối cùng lại trở về với thiên nhiên mênh mông trước mặt: “Buồn trông cửa bể chiền hôm...". Đã bao lần Kiều ''buồn trông" như thế, nhưng đến đây, những nỗi niềm của nàng trở nên nặng trĩu. Tám câu thơ, bốn cặp lục bát cùng một từ mở đầu, cùng một nỗi buồn, nhưng mỗi cặp câu là một vẻ buồn, một nghĩa buồn khác nhau. (Đoạn thơ cuối này, thực chất là một bài thơ chính nàng Kiều viết, chính là nỗi lòng của nàng lên biến thành thơ - 2 câu liền sau đó mà ở đây không trích, đã nói rõ: “ Xung quang những nước non người/ Đau lòng lưu lạc nên vài bốn câu". Và từ đó mới dẫn đến việc Sở Khanh "họa vần" để làm quen với Kiều).
"Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ". Cửa bể chiều hôm vốn mênh mông hoang vắng, cánh buồm thấp thoáng đi về chốn xa xôi, bao giờ cũng buồn, càng gợi buồn hơn trong cảnh quê người đất khách. Và bao trùm lên tất cả những hình ảnh diễn tả nỗi buồn ấy, ta có thể đọc thấy một nỗi trông chờ tuyệt vọng, khắc khoải; một sự tìm kiếm, một lời kêu gọi: đi đâu, về đâu, có ai?... Hay tất cả chỉ là sự im lặng hoang vắng? Những vần thơ có sức lay động, khơi gợi sự đồng cảm của con người chính vì lẽ đó, vì nó diễn tả chân thật nỗi khát khao cuộc sống, nỗi khát khao tình người...
Xemloigiai.com
Xem thêm Bài tập & Lời giải
Trong bài: Tổng hợp các bài văn nghị luận về tác phẩm Kiều ở lầu Ngưng Bích
Bài tập & Lời giải:
- 👉 Phân tích đoạn thơ Kiều ở lầu Ngưng Bích trích trong Truyện Kiều của Nguyễn Du
- 👉 Hãy phân tích đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” để thấy rằng: Nguyễn Du đã dựng nên một bức tranh tâm tình đầy xúc động
- 👉 Phân tích tám câu thơ cuối của đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích”
- 👉 Cảm nhận của em về tâm trạng của Thúy Kiều trong tám câu thơ cuối đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích (Truyện Kiều - Nguyễn Du).
- 👉 Bình giảng đoạn thơ sau: Buồn trông cửa bể …. quanh ghế ngồi.
- 👉 Phân tích đoạn thơ Kiều ở lầu Ngưng Bích để làm nổi bật tâm trạng của người con gái trên bước đường lưu lạc.
- 👉 Phân tích đoạn thơ Kiều ở lầu Ngưng Bích của đại thi hào Nguyễn Du.
- 👉 Phân tích tâm trạng Kiều khi ở lầu Ngưng Bích qua 4 bức tranh; Buồn trông.
- 👉 Đoạn thơ Kiều ở lầu Ngưng Bìch là một bức tranh tâm tình đầy xúc động.(bài 2)
- 👉 Phân tích đoạn thơ Kiều ở lầu Ngưng Bích (bài 4).
- 👉 Phân tích đoạn thơ Kiều ở lầu Ngưng Bích (bài 3)
- 👉 Cảnh nào …vui đâu bao giờ (Truyện Kiều - Nguyễn Du) Giải thích ngắn gọn cách hiểu của em về hai câu thơ trên, từ đó phân tích tám câu thơ cuối cùng của đoạn Kiều ở lầu Ngưng Bích để làm nổi bật bút pháp tả cảnh ngụ tình đã đạt đến thành công tuyệt vời củ
- 👉 Trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích (Truyện Kiều - Nguyễn Du) có tám câu cuối nhà thơ đã rất tài hoa trong nghệ thuật tả cảnh ngụ tình, Mỗi cảnh vật như nói với ta một nỗi buồn khác nhau và nỗi buồn đó ngày càng mãnh liệt hơn, ghê gớm hơn. Phân tích đo
- 👉 Trong đoạn thơ nói về tâm trạng Thúy Kiều khi ở lầu Ngưng Bích (Truyện Kiều), Nguyễn Du có tả bốn bức tranh Kiều: buồn trông rất hay. Hãy phân tích cái hay đó.
- 👉 Bình giảng đoạn thơ 8 câu sau đây: Buồn trông cửa bể chiều hôm..... Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
- 👉 Có ý kiến cho rằng đoạn thơ Kiều ở lầu Ngưng Bích là một bức tranh tâm tình đầy xúc động. Hãy phân tích đoạn để làm rõ ý kiến trên.
- 👉 Phân tích đoạn thơ Kiều ở lầu Ngưng Bích trong Truyện Kiều của Nguyễn Du (Bài 2)
- 👉 Phân tích đoạn thơ Kiều ở lầu Ngưng Bích.
- 👉 Hai bức tranh thiên nhiên trước lầu Ngưng Bích trong cảm nhận của Thúy Kiều.
- 👉 Tâm trạng nhân vật Thúy Kiều khi ở lầu Ngưng Bích.
- 👉 Hãy phân tích đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích.
- 👉 Tâm trạng nhân vật Thúy Kiều qua tám câu cuối trong đoạn trích: Kiều ở lầu Ngưng Bích Trích Truyện Kiều - Nguyễn Du.
- 👉 Phân tích tám câu thơ cuối trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích: Buồn trông cửa bể chiều hôm,…Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
- 👉 Bình giảng đoạn thơ sau trong bài Kiều ở lầu Ngưng Bích
Xem thêm lời giải Văn mẫu lớp 9
Nghị luận văn học
- 👉 Phong cách Hồ Chí Minh - Lê Anh Trà
- 👉 Đấu tranh cho một thế giới hòa bình - Ga-bri-en Gác-xi-a Mác-két
- 👉 Tuyên bố thế giới về sự sống còn, quyền được bảo vệ và phát triển của trẻ em
- 👉 Chuyện người con gái Nam Xương - Nguyễn Dữ
- 👉 Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh - Phạm Đình Hổ
- 👉 Hoàng Lê nhất thống chí
- 👉 Truyện Kiều - Nguyễn Du
- 👉 Chị em Thúy Kiều - Nguyễn Du
- 👉 Cảnh ngày xuân - Nguyễn Du
- 👉 Kiều ở lầu Ngưng Bích - Nguyễn Du
- 👉 Mã Giám Sinh mua Kiều - Nguyễn Du
- 👉 Thúy Kiều báo ân báo oán - Nguyễn Du
- 👉 Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga - Nguyễn Đình Chiểu
- 👉 Đồng chí - Chính Hữu
- 👉 Bài thơ về tiểu đội xe không kính - Phạm Tiến Duật
- 👉 Đoàn thuyền đánh cá - Huy Cận
- 👉 Bếp lửa - Bằng Việt
- 👉 Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ - Nguyễn Khoa Điềm
- 👉 Ánh trăng - Nguyễn Duy
- 👉 Làng - Kim Lân
- 👉 Lặng lẽ Sa Pa - Nguyễn Thành Long
- 👉 Chiếc lược ngà
- 👉 Cố hương - Lỗ Tấn
- 👉 Những đứa trẻ - Mác-xim Go-rơ-ki
- 👉 Bàn về đọc sách - Chu Quang Tiềm
- 👉 Tiếng nói của văn nghệ - Nguyễn Đình Thi
- 👉 Chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới - Vũ Khoan
- 👉 Chó sói và cừu trong thơ ngụ ngôn của La Phông-ten - Hi-pô-lít Ten
- 👉 Con cò - Chế Lan Viên
- 👉 Mùa xuân nho nhỏ - Thanh Hải
- 👉 Viếng lăng Bác - Viễn Phương
- 👉 Sang thu - Hữu Thỉnh
- 👉 Nói với con - Y Phương
- 👉 Mây và sóng - Ra-bin-đra-nát Ta-go
- 👉 Bến quê (trích) - Nguyễn Minh Châu
- 👉 Những ngôi sao xa xôi - Lê Minh Khuê
- 👉 Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang - Đe-ni-ơn Đi-phô
- 👉 Bố của Xi-mông - Guy-đơ Mô-pa-xăng
- 👉 Con chó Bấc - Giắc Lân-đơn
- 👉 Bắc Sơn - Nguyễn Huy Tưởng
- 👉 Tôi và chúng ta - Lưu Quang Vũ
Các bài tập làm văn
- 👉 Viết bài tập làm văn số 1
- 👉 Viết bài tập làm văn số 2
- 👉 Viết bài tập làm văn số 3
- 👉 Viết bài tập làm văn số 5
- 👉 Viết bài tập làm văn số 6
- 👉 Viết bài tập làm văn số 7
Nghị luận xã hội
Xem Thêm
Lớp 9 | Các môn học Lớp 9 | Giải bài tập, đề kiểm tra, đề thi Lớp 9 chọn lọc
Danh sách các môn học Lớp 9 được biên soạn theo sách giáo khoa mới của bộ giáo dục đào tạo. Kèm theo lời giải sách bài tập, sách giáo khoa, đề kiểm tra 15 phút, 45 phút (1 tiết), đề thi học kì 1 và học kì 2 năm học 2024 ngắn gọn, chi tiết dễ hiểu.
Bài soạn văn lớp 12 siêu ngắn
Toán Học
- Đề thi, đề kiểm tra Toán lớp 9
- Đề thi vào 10 môn Toán
- Tài liệu Dạy - học Toán 9
- SBT Toán lớp 9
- Vở bài tập Toán 9
- SGK Toán lớp 9
Vật Lý
Hóa Học
- Đề thi, đề kiểm tra Hóa lớp 9
- Tài liệu Dạy - học Hóa học 9
- SBT Hóa lớp 9
- SGK Hóa lớp 9
- Giải môn Hóa học lớp 9
Ngữ Văn
Lịch Sử
Địa Lý
Sinh Học
- Đề thi, đề kiểm tra Sinh lớp 9
- SBT Sinh lớp 9
- Vở bài tập Sinh học 9
- SGK Sinh lớp 9
- Giải môn Sinh học lớp 9
GDCD
Tin Học
Tiếng Anh
- Đề thi, đề kiểm tra Tiếng Anh 9 mới
- Đề thi vào 10 môn Anh
- SBT Tiếng Anh lớp 9
- SGK Tiếng Anh lớp 9
- SBT Tiếng Anh lớp 9 mới
- Vở bài tập Tiếng Anh 9
- SGK Tiếng Anh lớp 9 Mới