Bình giảng bài Ngóng gió đông của Nguyễn Đình Chiểu.
Đề bài
Bình giảng bài Ngóng gió đông của Nguyễn Đình Chiểu.
Lời giải chi tiết
A - TÌM HIỂU ĐỀ
Đây là bài thơ trong tác phẩm Ngư Tiều y thuật vấn đáp của Nguyễn Đình Chiểu. Xúc cảnh là lời ngâm của Đường Nhập Môn, một kẻ sĩ đi học nghề thuốc để cứu đời nhưng không gặp thời và đành ngậm ngùi nhìn cảnh nước mất nhà tan. Qua lời ngâm của nhân vật Đường Nhập Môn, Nguyễn Đình Chiểu đã gửi gắm tâm sự của mình.
Khi bình giảng bài thơ, cần nắm được biện pháp dùng cảnh ngụ tình kín đáo mà thiết tha của Nguyễn Đình Chiểu. Ngóng gió đông mang nhiều tầng nghĩa mà tiếng lòng, ao ước của tác giá được cất lên trực tiếp ở phần kết.
Cũng cần hiểu kết cấu một bài thơ Đường luật và bình giảng Ngóng gió đông theo bốn phần (đề, thực, luận, kết). Đặt bài thơ vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể của Nam Bộ, của đất nước ta lúc bấy giờ thì mới hiểu hết nỗi niềm thiết tha của Nguyễn Đình Chiểu.
B - DÀN BÀI CHI TIẾT
1) MỞ BÀI
Nguyễn Đình Chiểu là ngọn cờ đầu của thơ ca yêu nước Nam Bộ mấy mươi năm cuối thế kỉ 19. Cuộc đời ông đã nêu cao tấm gương trung nghĩa với đất nước, nhân dân. Ngay từ khi thực dân Pháp nổ súng đánh chiếm Nam Bộ bằng những tác phẩm văn thơ của mình, Nguyễn Đình Chiểu đã giương cao lá cờ nghĩa cứu nước, đã cổ vũ cho cuộc kháng chiến anh hùng của nhân dân.
Nguyễn Đình Chiểu xót xa khi Nam Bộ quê hương dần dần lọt vào tay giặc. Sống trong vòng kìm kẹp của kẻ thù, dù chúng ra sức dụ dỗ, ông vẫn bất hợp tác, giữ trọn tấm lòng tiết nghĩa. Từ đây, văn thơ Nguyễn Đình Chiểu thấm đượm nỗi đau buồn và khắc khoải niềm trông đợi vào ngày mai, hi vọng vào sự khôi phục giang sơn, đất nước. Bài thơ Ngóng gió đông bộc lộ những xúc cảm thiết tha ấy:
Hoa cỏ ngùi ngùi ngóng gió đông,
Chúa Xuân đâu hỡi có hay không?
Mây giăng ải Bắc trông tin nhạn
Ngày xế non Nam bặt tiếng hồng.
Bờ cõi xưa đà chia đất khác,
Nắng sương nay hà đội trời chung.
Chừng nào Thánh để ân soi thấu
Một trận mưa nhuần rửa núi sông.
2) THÂN BÀI
a) Nhận xét chung: Bao trùm cả bài thơ là niềm ngóng trông vời vợi, khát vọng thiết tha. Qua đề tài ngóng gió mùa xuân mát lạnh, qua những hình ảnh thiên nhiên, Nguyễn Đình Chiểu kí thác tâm sự thành thực của mình. Lời kí thác này được diễn đạt bằng một bài thơ Đường luật theo thể thất ngôn bát cú với kết cấu chặt chẽ.
b) Hai câu đề: Nỗi niềm buồn rầu trông ngóng và lời hỏi vô vọng:
Hoa cỏ ngùi ngùi ngông gió đông
Chúa xuân đâu hỡi có hay không?
Trong cả bài thơ, phần đề này được viết theo lối ẩn dụ kín đáo mà thiết tha nhất. Nói “hoa cỏ“ mà ngụ ý nói quê hương, đất nước, nói cả sông núi, nhân dân. Hoa cỏ đang trông ngóng đón đợi gió đông (gió mùa xuân) mát lành, đầm ấm để nảy nở tốt tươi cũng chính là nhân dân đang mong đợi những bậc anh hùng nào đó ra tay cứu nước. Vị thần mùa xuân có quyền lực đem lại sức sống cho muôn loài (chúa xuân) hay những bậc vua thánh tôi hiền đâu cả rồi, có hay không? Chữ “ngùi ngùi” biểu hiện tâm trạng buồn rầu như muốn khóc. Chữ “ngóng” càng tô đậm vẻ thiết tha, nóng lòng của sự mong đợi. Có lẽ phải đợi phải ngóng lâu lắm rồi mới thiết tha và ngấm xót xa đến thế. Bởi vậy lời hồi tim dồn dập mà không gặp lời đáp, như vang vào không gian mông lung, trông không. Nam Bộ lần lượt rơi vào tay giặc. Lòng dân li tán. Triều đình , không tổ chức kháng chiến. Chúa xuân đâu hỡi có hay không?
c) Hai câu thực: Càng mở rộng hơn, tô đậm hơn cái không gian mông lung xa vắng, cái cảm giác vô vọng ở hai câu đề:
Mây giăng ải Bắc trông tin nhạn
Ngày xế non Nam bặt tiếng hồng.
“Mây giăng ải Bắc”, “Ngày xế non Nam”, thủ pháp đối này diễn tả không gian mênh mông, thời gian đằng đẵng. Bốn phương trời đất nước, ngày cũng như đêm, ngày nọ sang tháng kia đều mịt mờ, đều bặt mọi tin tức! “Mây giăng ải Bắc”, gợi ta không gian xa vắng, ảm đạm. “Ngày xế non Nam” gợi lên cảm giác tàn lụi. Chim nhạn hay chim hồng đâu mà chẳng thấy để phải ngóng trông vò võ thế này! vẫn dùng các hình ảnh ước lệ những hai câu thực này biểu hiện cảm động nỗi niềm trông ngóng rất thực ở nhà thơ. Mặt khác, nó cũng kín đáo thể hiện sự trách móc thái độ hờ hững của Chúa Xuân.
d) Hai câu luận: Cái mờ mịt của không gian, sự vô vọng trong thời gian ở trên đến đây hiển hiện trên bức tranh sông núi. Hai câu luận đưa ta trở về với hiện thực đau đớn của đất nước và nói lên tấm lòng trung trinh của con người:
Bờ cõi xưa đà chia đất khác,
Nắng sương nay há đội trời chung.
Ngẫm ra, ta thấy lời thơ vừa xót xa căm giận, vừa oán trách. Ở đây có sự đối lập giữa “bờ cõi xưa” và “đất khác”. “Bờ cõi xưa” là giang sơn có chủ quyền, là sông núi thiêng liêng được tạo đựng, giữ gìn bằng mồ hôi, xương máu của bao thế hệ cha ông. Ấy vậy mà giờ đây bờ cõi muôn đời ấy bỗng bị cắt chia cho kẻ khác, đã thành “đất khác . Câu thơ nghe như tiếng khóc nức nở, căm giận. “Bờ cõi xưa” đã thành “đất khác” thì làm sao ta có thể “đội trời chung” với những kẻ mắt xanh mũi lõ, những kẻ can tâm ôm chân lũ giặc! Câu thơ sau vang lên như một lời thề. Trong lời thề ấy cố thái độ dứt khoát, quyết liệt nhưng cũng có cả niềm uất hận quằn quại chịu đựng. Khi triều đình dâng ba tình miền Đông cho giặc, cũng như nhiều nhân sĩ yêu nước lúc bấy giờ, Nguyễn Đình Chiểu đã chuyển sang sống ở miền Tây Nhưng rồi ba tỉnh miền Tây cũng mất luôn. Nhà thơ không đi nữa. Kẻ thù nhiều lần thuyết phục, dụ dỗ. Nhưng sống trong vùng địch chiếm mà đâu chịu đội trời chung. Ấy là tấm lòng kiên trung, thủy chung trọn vẹn với “bờ cõi xưa”, với nhân dân của nhà thơ mù Nguyễn Đình Chiểu.
e) Hai câu kết: Mở đầu bài thơ còn ngóng “gió đông”, còn tìm “Chúa Xuân”, giờ đây Nguyễn Đình Chiểu gọi, hỏi thẳng ra, trực tiếp. Phải chăng đó là thế hiện của niềm ước vọng thiết tha, đau đớn không còn kìm nén nổi:
Chừng nào Thánh đế ân soi thấu
Một trận mưa nhuần rửa núi sông?
Núi sông đầy bóng giặc. Dân tình khốn khổ bơ vơ. Bao giờ mới xuất hiện một vị vua sáng suốt, anh minh để rửa nhục cho non sông này. Nhà thơ ao ước một trận mưa lớn có thể cuốn phăng đi mọi thứ rác rưởi tanh hôi, tắm gội lại cho non nước quê hương mình. Là một nhà nho nên Nguyễn Đình Chiểu vẫn khao khát đợi một “Thánh dể”. Giọng thơ ở hai câu này vừa nghi vấn vừa cảm thán. Nó vừa chứng tỏ nỗi chờ đợi thiết tha, cũng vừa toát lên sự vô vọng.
3 - KẾT BÀI
Mượn lời nhẫn vật Đường Nhập Mòn, qua bài Ngóng gió đông, Nguyễn Đình Chiểu đã gửi gắm tâm sự của mình. Bài thơ là nỗi trông ngóng cảm động của một tấm lòng yêu nước, thương dân. Lòng người kín đáo gửi và cảnh vật và cuối cùng cất lên thành niềm ước mong tha thiết. Ngóng gió đông khiến ta trân trọng hơn tấm lòng, nhân cách Nguyễn Đình Chiểu - một nhà thơ yêu nước lớn của dân tộc nửa sau thế kỉ XIX.
Xemloigiai.com
Xem thêm lời giải Văn mẫu 11
Nghị luận xã hội lớp 11
Tập làm văn lớp 11
Nghị luận văn học lớp 11
- 👉 Vào phủ chúa Trịnh - Lê Hữu Trác
- 👉 Tự tình - Hồ Xuân Hương
- 👉 Câu cá mùa thu - Nguyễn Khuyến
- 👉 Thương vợ - Trần Tế Xương
- 👉 Khóc Dương Khuê - Nguyễn Khuyến
- 👉 Vịnh khoa thi Hương
- 👉 Bài ca ngất ngưởng - Nguyễn Công Trứ
- 👉 Bài ca ngắn đi trên bãi cát - Cao Bá Quát
- 👉 Lẽ ghét thương - Nguyễn Đình Chiểu
- 👉 Chạy giặc - Nguyễn Đình Chiểu
- 👉 Bài ca phong cảnh Hương Sơn - Chu Mạnh Trinh
- 👉 Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc - Nguyễn Đình Chiểu
- 👉 Chiếu cầu hiền (Cầu hiền chiếu) - Ngô Thì Nhậm
- 👉 Xin lập khoa luật - Nguyễn Trường Tộ
- 👉 Hai đứa trẻ - Thạch Lam
- 👉 Chữ người tử tù - Nguyễn Tuân
- 👉 Hạnh phúc của một tang gia - Vũ Trọng Phụng
- 👉 Chí Phèo - Nam Cao
- 👉 Cha con nghĩa nặng - Hồ Biểu Chánh
- 👉 Vi hành - Nguyễn Ái Quốc
- 👉 Vĩnh biệt cửu trùng đài - Vũ Như Tô
- 👉 Lưu biệt khi xuất dương - Phan Bội Châu
- 👉 Hầu Trời - Tản Đà
- 👉 Vội vàng - Xuân Diệu
- 👉 Tràng Giang - Huy Cận
- 👉 Đây thôn Vĩ Dạ - Hàn Mặc Tử
- 👉 Chiều tối - Hồ Chí Minh
- 👉 Từ ấy - Tố Hữu
- 👉 Lai Tân - Hồ Chí Minh
- 👉 Nhớ đồng - Tố Hữu
- 👉 Tương tư - Nguyễn Bính
- 👉 Tôi yêu em - A.X. Pu-skin
- 👉 Bài thơ số 28 - R. Ta-go
- 👉 Người trong bao - A.P. Sê-khốp
- 👉 Người cầm quyền khôi phục uy quyền - V.Huy-gô
- 👉 Về luân lí xã hội ở nước ta - Phan Châu Trinh
- 👉 Ba cống hiến vĩ đại của Các Mác - Ăng-ghen
- 👉 Một thời đại trong thi ca - Hoài Thanh
- 👉 Đọc thêm: Trần Tế Xương (Tú Xương)
- 👉 Đọc thêm Số đỏ - Vũ Trọng Phụng
- 👉 Đời thừa - Nam Cao
- 👉 Rô-mê-ô và Giu-li-ét - Sếch - xpia
- 👉 Đọc thêm: Phan Bội Châu
- 👉 Thề non nước - Tản Đà
- 👉 Đây mùa thu tới - Xuân Diệu
- 👉 Thơ duyên - Xuân Diệu
- 👉 Tiếng hát đi đày - Tố Hữu
- 👉 Tâm tư trong tù - Tố Hữu
- 👉 Đám tang lão Gô - ri - ô - Ban-dắc
- 👉 Một số tác giả, tác phẩm tham khảo - Ngữ văn 11
Xem Thêm
Lớp 11 | Các môn học Lớp 11 | Giải bài tập, đề kiểm tra, đề thi Lớp 11 chọn lọc
Danh sách các môn học Lớp 11 được biên soạn theo sách giáo khoa mới của bộ giáo dục đào tạo. Kèm theo lời giải sách bài tập, sách giáo khoa, đề kiểm tra 15 phút, 45 phút (1 tiết), đề thi học kì 1 và học kì 2 năm học 2024 ngắn gọn, chi tiết dễ hiểu.
Toán Học
- Đề thi, đề kiểm tra Toán lớp 11
- SBT Toán lớp 11 Nâng cao
- SBT Toán 11 Nâng cao
- SGK Toán 11 Nâng cao
- SBT Toán lớp 11
- SGK Toán lớp 11
Vật Lý
- SBT Vật lí 11 Nâng cao
- SGK Vật lí lớp 11 Nâng cao
- SBT Vật lí lớp 11
- SGK Vật lí lớp 11
- Giải môn Vật lí lớp 11
Hóa Học
- Đề thi, đề kiểm tra Hóa lớp 11
- SBT Hóa học 11 Nâng cao
- SGK Hóa học lớp 11 Nâng cao
- SBT Hóa lớp 11
- SGK Hóa lớp 11
Ngữ Văn
Lịch Sử
Địa Lý
Sinh Học
- Đề thi, đề kiểm tra Sinh lớp 11
- SGK Sinh lớp 11 Nâng cao
- SBT Sinh lớp 11
- SGK Sinh lớp 11
- Giải môn Sinh học lớp 11
GDCD
Tin Học
Tiếng Anh
- Đề thi, đề kiểm tra Tiếng Anh 11 mới
- SBT Tiếng Anh lớp 11
- SGK Tiếng Anh lớp 11
- SBT Tiếng Anh lớp 11 mới
- SGK Tiếng Anh lớp 11 Mới